Đặc điểm loại hình của tiếng Việt, trang 56 SGK Văn 11


Nội dung bài giảng

GỢI Ý LÀM BÀI

1. Câu 1 trang 58 SGK Văn 11

   Phân tích những đoạn trích dưới đây về mặt từ ngữ (chú ý các từ in đậm)

a)

   Trèo lên cây bưởi hái hoa,

   Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân.

   Nụ tầm xuân nỏ ra xanh biếc,

   Em đã có chổng anh tiếc lắm thay!

(Ca dao)

   Gợi ý:

   Đoạn trích có hai cụm từ nụ tẩm xuân đứng ở hai vị trí khác nhau. Tuy hình thức ngôn ngữ không thay đổi nhưng vai trò ngữ pháp của chúng trong câu có sự khác nhau. Cụm từ nụ tầm xuân thứ nhất giữ vai trò là bổ ngữ của câu (bổ sung ý nghĩa cho động từ hải). Trong khi đó, ở câu thứ ba, cụm từ nụ tầm xuân đóng vai trò là chủ ngữ của câu (chủ thể của quá trình nở).

b)                                                   

   Thuyền ơi có nhớ bến chăng,

   Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.

(Ca dao)

   Gợi ý:

   Cũng như đoạn trích ở phần 1, hai từ bến được sử dụng trong hai câu ca dao nêu trên cũng có những ý nghĩa ngữ pháp khác nhau. Từ bến ở câu lục là bổ ngữ chỉ đối tượng cho động từ nhớ. Từ bến thứ hai (trong câu bát) là chú ngữ (chủ thể của trạng thái khăng khăng đợi thuyền). Cả hai từ bến này đểu có nghĩa bóng chỉ người phụ nữ.

c)   

   Yêu trẻ, trẻ đến nhà; kính già, già để tuổi cho.

(Tục ngữ)

   Gợi ý

   Trong câu tục ngữ trên, dù hình thức ngôn ngữ giống nhau nhưng vai trò ngữ pháp của mỗi từ trẻ, già là khác nhau. Từ trẻ và từ già thứ nhất đều giữ vai trò là bổ ngữ cho các động từ (yêu và kính). Trong khi đó hai từ trẻ và già còn lại đã được chuyển loại (danh từ hoá) để giữ vai trò là chủ ngữ trong câu.

d)   

   Con đem con cá bống (1) ấy về thả xuống giếng mà nuôi. Mỗi bữa, đáng ăn ba bát thì con ăn hai, còn một đem thả xuống cho bống (2)... Nói xong, Bụt biến mất. Tấm theo lời Bụt thả bống (3) xuống giếng. Rồi từ hôm ấy trở đi, cứ sau bữa ăn, Tấm đều để dành cơm, giấu đưa ra cho bống (4) . Mỗi lần nghe lời Tấm gọi, bống (5) lại ngoi lên mặt nước đớp những hạt cơm của Tấm ném xuống. Người và cá ngày một quen nhau, và bống (6) ngày một lớn lên trông thấy.

( Tấm Cám)

   Gợi ý:

   Vai trò ngữ pháp của mỗi từ bống trong đoạn văn trên là:

- bống (1): là bổ ngữ chỉ đối tượng cho động từ đem.

- bống (2): là bổ ngữ chỉ đối tượng cho động từ thả (xuống).

- bống (3): là bổ ngữ chỉ đối tượng cho động từ thả.

- bống (4): bổ ngữ cho động từ đưa (ra).

- bống (5): chủ ngữ của câu (chủ thể của hành động ngoi lên).

- bống (6): là chủ ngữ của câu (chủ thể của quá trình ngày một lớn lên trông thấy).

2. So sánh một câu tiếng Anh với một câu dịch để thấy đặc điểm riêng về loại hình giữa hai loại ngôn ngữ này.

a) Câu ví dụ:

- Tiếng Anh: I saw her, three days ago.

- Dịch: Tôi thấy cô ta cách đây ba hôm.

b) Phân tích so sánh:

- Đặc điểm loại hình ngôn ngữ ìioà kết của tiếng Anh trong câu ví dụ trên thể hiện ở:

+ Ranh giới các âm tiết không rõ ràng: các từ three, ago dù có dạng hai âm tiết nhưng chúng được phát âm nối liền nhau.

+ Từ có sự biến đổi về hình thức: từ saw (thấy, nhìn thấy) có hình thức tồn tại ở thì quá khứ. Thì hiện tại của từ này được viết là see. Cũng tương tự như vậy là trường hợp từ her (cô ấy). Trong câu này từ "cô ấy" không phải là chủ ngữ (she) mà nó đóng vai trò là tân ngữ, thế nên dạng thức tồn tại của nó là đại từ nhân xưng (her).

+ Trật tự từ không được sắp xếp theo thứ tự trước sau. Trạng ngữ của câu đặt ở cuối câu. Đồng thời ngay trong trạng ngữ thì trật tự thuận cũng bị đảo lộn: từ cách đây (ago) lại đặt sau phần chỉ thời gian (three days).

- Ngược lại với những đặc điểm nêu trên của tiếng Anh là những đặc điểm riêng của loại hình ngôn ngữ đơn lập trong câu dịch tiếng Việt:

+ Ranh giới các âm tiết rõ ràng (mỗi âm tiết được phát âm riêng biệt, tách rời): Tôi / thấy / cô / ta / cách / đây / ba / hôm.

+ Từ không có sự biến đổi về hình thức: bổ ngữ cô ta, động từ thấy.

+ Trật tự từ được sắp xếp theo đúng thứ tự trước sau.

3. Câu 3 trang 58 SGK Văn 11

   Trong đoạn văn: "Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị... Cộng hoà" (Hồ Chí Minh, Tuyên ngôn Độc lập, SGK Ngữ vân 11, tập hai, tr. 58) có hai hư từ đáng chú ý nhất là: đã và lại. Việc sử dụng hai từ này kết hợp với biện pháp tu từ điệp cấu trúc cú pháp và lối diễn đạt tầng bậc đã giúp Hồ Chí Minh khẳng định một chân lí chắc chắn, đó là: dân ta hoàn toàn chủ động đứng lên đánh đuổi thực dân, lật đổ giai cấp phong kiến lỗi thời, lâp nên nhà nước dân chủ. Công lao đó thuộc về nhân dân ta chứ không phải là sự ban phát hay giúp đỡ của bên ngoài