Viết bài tập làm văn số 1 trang 44 SGK Ngữ Văn 7


Nội dung bài giảng

Trước khi viết bài, các em cần lưu ý một số điểm sau:

1. Đọc kĩ đầu đề để xác định yêu cầu về hình thức bài làm (miêu tả, tự sự), yêu cầu về nội dung bài làm.

2. Xây dựng một dàn ý chi tiết với đầy đủ những hình ảnh, từ ngữ để diễn đạt ý tưởng. Dàn ý phải dự kiến một bố cục hợp lí, rành mạch gồm ba phần.

3. Sau khi viết xong, nhớ đọc kiểm tra lại bài làm.

Dưới đây là hai bài tham khảo: một thuộc loại miêu tả, một thuộc loại tự sự.

NGƯỜI NHẠC SĨ MÙ

Trên con đường xuyên qua các hàng phố đông người, trời nắng gắt, tôi lại một cái quán nhỏ để giải khát, cầm li nước đá định uống, tôi chợt nghe tiếng đàn văng vẳng đâu đây.

Tôi ngước mắt nhìn ráo dác. Dưới một gốc cây to, một nhạc sĩ đang ngồi bên cây đàn thập lục. Chung quanh là những người hiếu kì bu lại nghe đàn.

Người nhạc sĩ ấy chừng hai mươi sáu tuổi. Anh mặc một chiếc quần tây đã bạc màu, một chiếc áo sơ mi trắng đã sờn vai, đầu đội cái nón nỉ đen còn vương bụi đường qua bao ngày dãi gió dầm mưa, sống một cuộc đời phiêu bạt. Định mệnh tàn ac dã cướp rnãt đôi mái của anh, chỉ còn lại một lõm sâu như cả một bầu trời đen tối.

Anh ngồi xếp bằng. Tay mặt anh gảy đàn, tay trái lướt nhanh phím đàn. Tiếng đàn thập lục hết sức huyền diệu, lôi cuốn khách đường càng lúc càng đông.

Đôi tay anh cử động nhịp nhàng. Anh cất tiếng hát. Tiếng hát bổng của anh vang lên giữa những lời thán phục của thính giả. Giọng hát của anh thật là buồn. Nhìn gương mặt anh lúc bấy giờ ta thấy hiện rõ sầu khổ của một kiếp người lang thang.

Tôi bỏ vào cái lon trước mặt anh một đồng bạc. Các thính giả cũng làm theo. Anh dừng tay đàn, nói mấy lời cảm ơn.

Tôi đứng lặng nhìn anh thầm nghĩ: Anh tuy đui mù nhưng biết lấy điệu đàn, tiếng hát làm phương tiện sinh sống, không như những ngùi khác lành mạnh mà vẫn ngửa tay đi ăn xin hàng ngày. Anh là người nghệ sĩ bình dân đáng mến!

Minh Văn - Xuân Tước

PHÚT LÂM CHUNG

Hồi đó về cuối thu. Cụ Tú Lãm nằm ở giường bệnh, người gầy xọp còn nắm xương da bọc. Nhất là bộ mặt hốc hác, mắt sâu hoắm, má  lõm hẳn xuống chẳng khác gì một cái đầu lâu.

Đêm khuya, gió lạnh vù vù thổi lọt qua khe cửa bức màn. Ngọn đèn dầu hỏa chiếu ánh sáng rung rinh lờ mờ vào những đôi câu đối sơn đen, sơn đò treo ở cột, ở tường. Sau bức màn the trắng, bài vị bà Tú được đặt trên cái ngai sơn son thiếp vàng. Trên bàn thờ bộ thất sự bằng đồng trông ẩn lộ như trong tâm hình chụp không được rõ.

Canh chiếc hỏa lò than đỏ ối, lách tách nổ liên thanh, Mai quỳ bên giường, hai tay nắm bàn tay khô khan của cha già, như cố giữ người ố lại không cho rời xa thế giới bên kia. Còn Huy thì ngồi ở cái ghế gỗ bưng mặt khóc, thỉnh thoảng lại gọi:

-  Chị ơi, thầy có việc gì không chị?

Mai cũng nức nở khóc không trả lời.

Cụ Tú hơi thờ chỉ còn thoi thóp dùng đến sức thừa nắm chặt lấy tay con gái.

Mai biết rằng cụ muốn đặn một lời cuối cùng, liền ghé lại gần hỏi:

-   Thưa cha, cha dạy con điều gì?

Huy cũng làm theo chị, đứng dậy cúi gần sát mặt người sắp từ trần để trần lấy những lời giáo huấn tối hậu. Cụ Tú sẽ động môi thì thầm:

- Lẽ tất nhiên, ai cũng phải chết. Các con không nên buồn. Lúc nào cũng phải vui thì mới đủ can đảm, đủ nghị lực mà sống ở đời. Hai con nên theo gương cha. Cha vui đến giờ cuối cùng. Cha hi vọng thế nào các con cũng làm vẻ vang cho cha, cho linh hồn cha nơi chín suối. Cha hi vọng thế nào em Huy cũng học hành thành tài và trở nên một người hữu ích  cho xã hội. Cha mất đi chẳng còn của cải gì để lại cho hai con. Cha có ba thứ gia bảo này ông cha để lại cho cha, nay cha truyền lại cho hai con mà thôi: là giữ lòng vui, giữ linh hồn trong sạch và đem nghị lực ra làm việc.

Sức cụ Tú chỉ còn nói đến thế. Nói dứt mấy câu tâm phúc, cụ thiêm thiếp dần dần.

Bên ngoài, gió vẫn thổi vù vù, hạt mưa lốp bốp trên mái ngói. Văng vẳng ở xóm xa tiếng chó sủa đêm...

(Khái Hưng - Nửa chừng xuân)